Xin chào mừng các bạn đã đến với di tích lịch sử văn hóa đền Ngọc Sơn. Trước tiên tôi xin tự giới thiệu tôi là ….. – thuyết minh viên tại điểm di tích đền Ngọc Sơn. Thay mặt cho Ban quản lý di tích xin gửi tới các bạn lời chúc sức khỏe, chúc các bạn có một buổi tham quan, học tập bổ ích, lý thú và thu lượm được nhiều kiến thức thực tế phục vụ cho công việc học tập của các bạn. Hôm nay tôi rất vinh dự được cùng với các bạn đến thăm quan điểm di tích nổi tiếng, hấp dẫn của thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, đó là Hồ Hoàn Kiếm – Đền Ngọc Sơn. Để buổi tham quan được vui vẻ, an toàn và hiệu quả tôi xin lưu ý các bạn đền là nơi linh thiêng các bạn không nên nói to, nô đùa khi tham quan trong đền, trang phục lịch sự, không đội mũ, đeo kính râm và không thắp hương khi vào trong đền. Bây giờ, xin mời các bạn bắt đầu buổi tham quan.
Các bạn sinh viên thân mến, đúng là thiên nhiên đã ưu ái dành cho Thăng Long – Hà Nội cảnh đẹp tuyệt vời. Nơi chúng ta đang đứng đây chính là thắng cảnh Hồ Hoàn Kiếm – Đền Ngọc Sơn- một trong số những cảnh đẹp nổi tiếng của thủ đô Hà Nội. Cho phép tôi mở đầu buổi tham quan ngày hôm nay bằng những thông tin thú vị về Hồ Hoàn Kiếm. Hồ Hoàn Kiếm xa xưa vốn là một đoạn dòng cũ của sông Hồng. Nguyên có một thời Sông Hồng chảy lùi về phía Tây, sau đổi dòng mới dịch dần sang phía đông như bây giờ. Trước kia hồ có tên là hồ Lục Thuỷ vì nước hồ xanh ngắt quanh năm. Bên cạnh đó hồ còn có một số tên khác như hồ Tả Vọng, hồ Hữu Vọng và hồ Thuỷ Quân. Sở dĩ hồ có tên là hồ Thuỷ Quân là vì trước kia vào đời Trần nghĩa quân thường ra tập trận. Còn bây giờ hồ mang tên là hồ Hoàn Kiếm vì nó gắn với truyền thuyết của vua Lê trả gươm thần.
Chuyện cũ kể rằng:
Giặc Minh chiếm nước ta, đặt ách đô hộ, chúng tàn ác gây nhiều bạo ngược, lòng dân sôi sục căm thù. Lúc bây giờ ở đất Thanh Hoá có một người đánh cá tên là Thận. Một đêm anh ta kéo lưới thấy nặng chắc mẩm được mẻ cá to, ai ngờ chỉ có một thanh sắt. Thận bèn vứt xuống nước rồi đi thả lưới ở một đoạn sông khác. Lần thứ hai lưới kéo cũng nặng tay và anh lại thấy thanh sắt nọ. Thận quẳng xuống sông. Đến lần thứ ba lại vẫn nó chui vào lưới. Thân lấy làm lạ bật mồi lửa soi, thì ra một lưỡi gươm. Sau Thận nhập vào nghĩa quân Lê Lợi. Một lần chủ tướng đến thăm nơi Thận ở, thấy trong góc tối có ánh sáng loé lên, cầm lên thì thấy lưỡi gươm có khắc hai chữ “Thuận Thiên”. Lần khác Lê Lợi qua một khu rừng thấy trên ngọn cây có ánh sáng lạ, ông trèo lên tìm được một chiếc chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Thận, ông cầm chiếc chuôi về lắp vào kiếm thấy vừa như in. Từ đó thành gươm thần theo Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn tung hoành trong suốt 10 năm. Một năm sau khi dẹp xong quân xâm lược, vua Lê Lợi cưỡi thuyền rồng dạo chơi trên hồ Lục Thuỷ. Thuyền ra tới giữa hồ, bỗng có một con rùa vàng rất lớn nổi lên làn nước xanh. Vua đang đứng ở mũi thuyền thấy thanh kiếm đeo bên mình tự nhiên động đậy. Đến trước mặt nhà vua, Rùa vàng đứng thẳng trên mặt nước và nói. Bệ hạ hoàn lại gươm cho Long Quân. Nhà vua hiểu ra, vội rút kiếm ra khỏi vỏ. Thanh gươm thần vụt rời tay vua bay về phía Rùa vàng. Rùa há miệng đấp lấy thanh gươm rồi lặn xuống hồ. Vua nghĩ rằng trước đây thần đã giúp mang gươm cho mình đánh thắng giặc, nay đất nước đã thanh bình, thần lấy lại gươm, nên vua đặt tên cho hồ là hồ Hoàn Kiếm.
Xin mời các bạn nhìn ra xa giữa lòng hồ đó là một ngọn tháp mà chúng ta quen gọi là tháp Rùa. Thực ra, tháp này không có ý nghĩa lịch sử, ở đó, trước kia là một đảo đất tự nhiên, vào ngày hè Rùa thường lên đây phơi nắng và đẻ trứng nên có tên là tháp rùa. Vào thế kỷ 15 có Đài câu cá của Vua Lê. Năm 1884, khi thực dân Pháp cai trị đất nước ta, một tay sai của Pháp là Bá Kim, lấy cớ xin xây tháp lên trên để làm “gồ đằng sau” cho ngôi chùa Báo Ân ở phía bờ sông. Hôm khởi công, hắn lén lút đưa hài cốt bố mẹ ra táng trộm ở đó, vì hắn rất mê thuật phong thuỷ. Đây là một vị trí tốt, nếu được như vậy thì hắn và con cháu hắn sẽ được giàu có, sung sướng. Nhưng nhân dân hay biết đã bí mật đào hai nắm xương ấy và quẳng xuống hồ. Bá Kim cay đắng vẫn phải tiếp tục xây tháp cho xong. Chính vì tháp Rùa được xây dựng trong hoản cảnh như vậy nên sau cách mạng tháng 8 – 1945 nhân dân định phá bỏ nhưng vì chính trên ngọn tháp này cờ cách mạng đã được cắm ở đó nên được giữ lại. Trải qua năm tháng nó trở thành hình ảnh quen thuộc, rất đỗi thân thương của người dân Hà Nội.
Trước khi chúng ta bước vào phần chính của buổi tham quan hôm nay, tôi xin giới thiệu với các bạn về sự hình thành của đến Ngọc Sơn. Xưa kia trong hồ nổi lên hai đảo đất, hòn to là đảo Ngọc, hòn nhò là đảo Rùa. Đảo Ngọc là nơi chúa Trịnh Giang cho xây cung Khánh Thuỵ đời Vĩnh Hựu (1735 – 1739) làm nơi yến ẩm, vui chơi ngày hè. Để làm đẹp thêm quang cảnh chúa cho đắp hai gò núi Đào Tài, Ngọc Bội ở bên bờ phía đông.
Họ Trịnh suy vong, Lê Chiêu Thống được Nguyễn Huệ trao trả quyền hành, năm 1786 đã hèn mạt trả thù họ Trịnh bằng cách đốt trụi Phủ Chúa và cung Khánh Thụy. Đầu thế kỷ 19, một ngôi chùa dựng trên nền cung điện cũ ở đảo Ngọc nên gọi là Ngọc Sơn Tự. Trước chùa có một lầu chuông khá cao. Năm 1843, hội hướng thiện quản lý đã chuyển chùa thờ Phật thành ra đền thờ Tam Thánh và cả anh hùng cứu nước Trần Hưng Đạo. Sau đó lầu chuông bị phá bỏ. Năm 1864, nhà văn nổi tiếng của Hà Nội là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại toàn cảnh. Trong đền, ông đề cao việc thờ thần Văn Xương, vị sao chủ trông nom khoa cử theo tín ngưỡng Đạo Lão. Ông cho xây kè đá ở chân đảo, dựng đình Trần Ba ngày trước đền và trông thẳng ra đảo Rùa ở phía nam hồ.
Đền Ngọc Sơn hiện nay vẫn giữ nguyên quy mô kiến trúc từ thời Nguyễn Văn Siêu cho tu sửa lại. Đi qua Nghi Môn, lớp kiến trúc đầu tiên bên trái có tháp Bút, bên cạnh miếu sơn thần, qua cổng thứ hai một lối đi nhỏ dẫn đến cổng Đài Nghiên để vào đến Cầu Thê Húc, qua cầu Thê Húc dẫn vào lầu Đắc Nguyệt là đã vào đến ngôi đền chính. Trước đền là trấn Ba Đình và đền Ngọc Sơn với ba lớp kiến trúc Bái Đường, Trung Đường và Hậu Cung là nơi thờ Tam Thánh và Trần Hưng Đạo. Bây giờ, xin mời các bạn cùng bắt đầu vào thăm quan đền Ngọc Sơn.
Phía trước mặt đoàn chúng ta đây là cổng Nghi Môn, được dựng với bốn cây cột xây bằng gạch và hai mảng tường lửng. Trên đỉnh hai cột giữa được đắp nổi bốn con phượng chụm đuôi, xòe cánh. Hai cột bên là hình hai con nghê trầu vào. Những mô típ trang trí quen thuộc trong kiến trúc truyền thống Việt Nam. Ở mỗi cột đều có đắp những cặp câu đối chữ Hán vừa làm tăng vẻ cổ kính của di tích vừa giúp khách tham quan hiểu thêm về lịch sử và cảnh quan cũng như cảm thụ chất thơ, chất văn học và cả ý nghĩa triết học ở đây. Ở hai cột chính câu đối chính diện bằng chữ Hán là:
“Lâm thủy đăng sơn nhất lộ tiệm nhập giai cảnh
Tầm nguyên phỏng cổ thử trung vô hạn phong quang”
Dịch nghĩa là:
“Đến cõi nước, trèo lên non, một lối dẫn vào cảnh đẹp
Tìm nguồn cội, hỏi chuyện xưa, trong chốn này biết mấy phong quang”
Đôi câu hối như lời chào mời du khách, hứa hẹn nhiều thú vị khi vào thăm di tích
Trên hai mảng tường ở hai bên có hai chữ Phúc, Lộc cỡ lớn, tô son như lời chúc mọi sự tốt lành. Bên phải của các bạn là chữ Phúc có nghĩa là hạnh phúc, là niềm vui. Bên trái là chữ Lộc là thình vượng, là hưởng thụ. Bên trên chữ Phúc còn có hai ba chữ “Ngọc ư tư” nghĩa là “Ngọc ở đây” đây là chữ được lấy từ sách Luận Ngữ “hữu mỹ ngọc ư tư” có nghĩa là có ngọc đẹp ở đây. Bên trên chữ Lộc có ba chữ “sơn ngưỡng chỉ” được lấy từ sách Kinh Thi: Cao sơn ngưỡng chỉ = ngửa trông núi cao. Ngọc là nói về phẩm chất cao đẹp của người quân tử, có đạo và núi cao là chỉ bậc hiền tài. Bây giời xin mời các bạn qua cổng Nghi Môn để chúng ta vào với không gian của lớp kiến trúc đầu tiên.
Xin giới thiệu với các bạn công trình kiến trúc độc đáo phía trước mặt đoàn chúng ta đây chính là Tháp Bút. Tháp được Nguyễn Văn Siêu cho dựng vào năm 1864 trên núi Độc Tôn. Núi này có đường kính 12m, cao 4m. Tháp vuông bằng đá, có năm tầng, cạnh đáy tầng một là 2m, lên đến tầng năm là 1,2m. Cả năm tầng cao 9m. Tháp Bút, theo ý tưởng của người thiết kế là “tượng trưng cho nền văn vật”, bởi theo như bài Bút Tháp chí do Nguyễn Văn Siêu soạn, khắc trên thân tháp ở tầng thứ ba mặt nhìn về hướng tây ghi lại thì có đoạn: “Ấy núi là biểu tượng của chiến công mà tháp là biểu tượng của văn vật. Tháp nhờ núi mà cao thêm, núi nhờ tháp mà truyền mãi…” Các bạn có thấy trên thân tháp còn khắc ba chữ Hán lớn đó là “Tả thanh thiên” có nghĩa là “viết lên trời xanh”, có rất nhiều cách giải thích về ý nghĩa của ba chữ này: nào là giãi bày tấm lòng với trời xanh, nào là cảm hứng đầy tráng khí, tâm hồn mở rộng bao la, đặt câu hỏi với trời xanh… Nhưng cách hiểu được nhiều người chấp nhận nhất là viết lên trời xanh. Ở đây, Nguyễn Văn Siêu ý muốn nói, mượn ngọn bút này, lấy ngấn nước hồ Gươm làm mực và trời xanh làm giấy mới đủ để viết hết nỗi lòng của các chí sĩ Bắc Hà đương thời.
Mời các bạn cùng hướng tầm mắt xuống bên cạnh chân tháp Bút, đó là miếu Sơn thần tức miếu thờ thần núi. Chắc hẳn các bạn sẽ thắc mắc, tại sao núi thì nhỏ mà cũng có miếu để thờ thần núi đúng không ạ? Vâng, theo thuật phong thủy cổ: cao nhất thốn giả vi sơn tức là chỉ cần cao một tấc thì cũng là núi rồi. Núi dù to hay nhỏ thì phải có một vị thần cai quản. Miếu dù nhỏ nhưng hai bên cửa cũng có cặp câu đối rất hay:
“Cố điện hồ sơn lưu vượng khí
Tân từ hương hỏa tiếp dư linh”
Nghĩa là:
“Điền cũ núi hồ lưu vượng khí
Đền nay hương lửa tiếp dư linh”
Phía trước đền đây còn có một tấm bia nhỏ trên có khắc năm chữ: “Thái Sơn thạch cảm đương”. Có người tưởng rằng năm chữ này ý nói là đá núi này dám sánh với đá núi Thái. Kỳ thực đây là một cụm từ, một thành ngữ Trung Hoa chỉ có ý nghĩa là hòn đá trấn yểm. Vì ở Trung Quốc xưa có tục dựng một hòn đá trước cửa chính để trấn yểm tà ma. Mà núi Thái Sơn là núi nổi tiếng nhất trong năm ngọn núi nổi tiếng của Trung Quốc, lại là núi có vị thần toàn năng, các triều đại vua chúa phong kiến xưa phải tới đây cúng tế nên đá của núi này cũng rất linh thiêng. Dựng hòn đá núi Thái là tà ma chạy dài.
Mời các bạn nhìn theo hướng tay tôi chỉ, hai bên của cổng thứ hai được đắp nổi đôi cáicâu đối đầy ý nghĩa khuyến cáo:
“Nhân gian văn tự vô quyền toàn bằng âm đức
Thiên thượng chủ tư hữu nhãn đơn khán đan điền”
Vế thứ nhất có nghĩa là: Ở chốn nhân gian này, cái quyền chân chính chính là sự tu dưỡng đạo đức
Vế thứ hai có nghĩa là: Trên trời kia, ông thánh coi việc khảo thí nhân gian (không tính đến lễ vật) mà chỉ soi xét chính lòng dạ con người
Các bạn có thể thấy, ở hai bên trụ xây hai cửa nách giả kiểu hai tầng tám mái cong. Mặt trước của hai cửa này đắp nổi một bên là rồng đang cuộn khúc đón đàn cá đang thi nhau vượt sóng bên trên có hai chữ Long Môn và một bên là một chú hổ trắng như đang tiến ra với người đời bên trên có hai chữ Hổ Bảng. Đấy là diễn ý các điển tích cổ. Long Môn, theo văn hóa Phương Đông là chỉ sự thành công trong thi cử xuất phát từ tích cá chép vượt Vũ Môn. Còn chữ Hổ Bảng nghỉa đen là bảng hổ, nghĩa bong là bảng ghi tên những người đỗ tiến sĩ. Điển tích này có từ đời Đường: có một khoa thi tiến sĩ có nhiều người trúng tuyển sau trở thành những danh nhân như Hàn Dũ, Âu Dương Thiềm…. khác nào những con rồng, con hổ trên văn đàn. Hai bên Long Môn, Hổ Bảng có đôi câu đối vừa giải thích ý nghĩa trên vừa xưng tụng tòa Tháp Bút trước mặt:
“Hổ Bảng Long Môn thiện nhân duyên tháp
Nghiên Đài Bút Tháp đại khối văn chương”
Có nghĩa là:
“Bảng Hổ, Cửa Rồng là để biểu dương nhân quả của người làm điều tốt
Đài Nghiên, Tháp Bút là để mô tả văn nghiệp của đất trời vĩ đại”
Như vậy, đã có Tháp Bút, phải có Đài Nghiên, mời các bạn chúng ta cùng vào tham quan cổng thứ 3, hay còn gọi là cổng Đài Nghiên.
Xin giới thiệu với các bạn phiến đá đặt trên nóc cổng kia chính là Đài Nghiên. Đài Nghiên cũng được Nguyễn Văn Siêu cho làm từ lần trùng tu năm 1864. Nghiên được tạc từ cả một tảng đá xanh, hình quả đào cắt ngang theo chiều dọc, khoét lõm lòng chảo, bề dài quả đào 0,97m, bề ngang 0,8m, cao 0,3m, chu vi chừng 2m. Đài Nghiên được ba con cóc đội như ba cái chân kiềng. Đặc biệt phía dưới Đài Nghiên, trong bức cuốn thư kia có khắc một bài minh của Nguyễn Văn Siêu. Chỉ có 64 chữ Hán nhưng ý tứ thật hàm súc. Hiện nay có nhiều bản dịch bài minh này, tôi xin đọc cho các bạn nghe bài dịch nghĩa của nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc: “Xưa kía lấy gốc đất làm nghiên, chú giải Đạo Đức Kinh, nghiền ngẫm bên nghiên lớn, viết sách Hán Xuân Thu. Từ đá tách ra làm nghiên, chẳng có hình dáng. Không vuông, không tròn, dùng vào mọi việc thật kỳ diệu. Không cao, không thấp ngôi ở chính giữa. Cúi soi hồ Hoàn Kiếm, ngửa trông ngọn Bút đá ứng vào sao Thai mà làm ra mọi biến đổi. Ngậm nguyên khí mà mài hư không”. Có thể đây là một quan niệm có tính chất bản thể luận về cái nghiên mực và cũng là về tư tưởng của người đương thời. Qua đây, có thể thấy được văn chương của Thần Siêu quả là hàm súc đầy ý nghĩa. Cột cổng Đài Nghiên có đôi câu đối tả cảnh quan chung:
“Bát đảo, mặc ngân hồ thuỷ mãn
Kình thiên, bút thế thạch phong cao”
Nghĩa là:
“Tràn quanh đảo, ngấn mực đầy hồ
Trên cổng Đài Nghiên còn có hình tượng ba con dơi quay đầu xuống đất. Theo tiếng Hán thì từ “dơi” khi đọc giống như từ phúc. Vậy là ở đền Ngọc Sơn có cả ba yếu tố – Phúc, Lộc, Thọ.
Bây giờ mời các bạn qua một cây cầu với cái tên rất lạ – cầu Thê Húc để vào đền Ngọc Sơn. Cũng như Hồ Gươm, Cầu Thê Húc đã làm cho ngôi đền hấp dẫn hơn đối với khách du lịch. Mời Các bạn nhìn sang hai bên cầu có ghi chữ “Thê Húc Kiều” Thê là đậu, Húc là ánh sang ban mai, có nghĩa là cầu giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Tuy nhiên, ban đầu cầu chỉ là những tấm ván đặt dọc theo mặt phẳng trên các hàng cột chon trong nước hồ, chưa có tay vịn. Có lẽ về sau, qua những lần tu bổ, người ta mới làm đẹp cho cầu, làm cầu cong lên như hình cầu vồng lại sơn đỏ cho hợp với tên gọi cũng như kết hợp với màu nước trong xanh của hồ Gươm làm nên sự hài hòa âm dương theo như quan niệm trong Kinh Dịch. Ngoài ra, để giải thích màu đỏ của cây cầu, người dân vẫn thường gắn với một câu chuyện rất hay là: Trong những năm đất nước ta bị giặc Pháp đô hộ, một số tên quan Pháp không hiểu gì về nền văn hiến Việt Nam dám ngổ ngáo dùng đền Ngọc Sơn làm nơi ăn chơi hưởng lạc làm ô uế chốn linh thiêng của đền. Người dân quanh đó rất lấy làm phẫn uất. Một cậu học trò tên là Giang Văn Minh ở phố Hàng Bông đã dùng mưu, đang đêm đốt cháy cầu khiến cho bọn Pháp hoảng sợ. Từ đó chúng không dám kéo nhau đến nơi đầy và cũng từ đó cầu được sơn thành màu đỏ để nhắc cho mọi người nhớ tới hành động dũng cảm của cậu bé. Cũng chính màu đỏ của cầu kết hợp với màu xanh của nước đã tôn thêm vẻ đẹp của ngôi đền.
Tiếp theo xin mời các bạn sang phía bên kia cầu.
Trước mặt các bạn đây là Đắc Nguyệt Lâu có nghĩa là lầu được trăng. Lầu nhỏ xinh xắn có hai tầng, tầng hai có hai mái, có những cửa sổ hình tròn. Bởi hình tròn tượng trưng cho dương còn nước tượng trưng cho âm. Đây là sự kết hợp âm dương, chỉ sự tồn tại và phát triển. Hai bên cửa sổ tròn có đôi câu đối ý tứ lãng mạn:
“Bất yểm hồ thượng nguyệt
Uyển tại thủy trung ương”
Có nghĩa là: Trăng trên hồ ngắm bao nhiêu cũng không chán, cứ như dầm mình trong làn nước miên man.
Mời các bạn nhìn sang hai bên cổng có hai bức tranh được đắp nổi gắn bằng mảnh sứ vỡ, bên phải các bạn đây là bức Long Mã Hà Đồ, bên trái kia là bức Thần Quy Lạc Thư. Ở bức Long Mã Hà đồ có đắp nổi hình con ngựa, đầu rồng, trên lưng có đep cái bát quái. Đấy là điển tích về thời vua huyền thoại Phục Hy ở Trung Quốc được đặt vào thời điểm cách ngày nay trên năm ngàn năm. Thủa đó chưa có chữ viết. Phục Hy một hôm thấy trên sông Hoàng hà nổi lên con long mã (đầu rồng, mình ngựa) trên lưng có vằn có nét. Phục Hy liền dựa vào các vằn nét đó mà lập ra bảng vẽ có tám quẻ thẻ gọi là Bát quái toàn đồ. Đời sau gọi là Hà đồ tức là đồ Bát quái rút ra từ sự tích long mã trên sông Hà. Đó là những con số đếm đầu tiên, cũng là những chữ viết đầu tiên của người Trung Hoa. Sau Phục Hy hàng vài trăm năm có huyền thoại Đại Vũ. Ông này trong khi đi trị thủy ở sông Lạc thấy nổi lên một con rùa trên lưng có những chấm đen trắng đặc biệt theo trình tự. Ông dựa vào các chấm đó mà tạo ra Cửu Trù (chin khoảnh). Đời sau gọi là Lạc thư tức bản viết từ rùa thần sông Lạc. Từ Bát quái và Cửu trù, những phát minh quan trọng về số học, đồng thời áp dụng vào việc tính toán, mở rộng ra có thể giải thích nhiều hiện tượng trước mắt và suy đoán những việc sẽ xảy ra trong vũ trụ, nhân sinh trong tự nhiên, xã hội và liên quan tới con người.
Tiếp theo xin mời các bạn theo tôi, chúng ta sẽ vào bên trong để tham quan khu vực chính của đền. Thưa các bạn, trước mắt các bạn đây chính là Đình Trấn Ba, một kiến trúc thanh thoát và đậm chất thơ. Được thần Siêu cho dựng cùng với Đài Nghiên và Tháp Bút năm 1865-1866 theo quan niệm “thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát quái”. Theo đó hình thành lên kiến trúc hình vuông với 2 tầng 8 mái.
Trấn Ba Đình trước kia có một tấm bia gọi là Bài ký sửa lại miếu Văn Xương ( Trùng tu Văn Xương miếu bi ký ),hiện nay không tìm thấy bia này trong khu vực đền Ngọc Sơn nữa. Bản dập của bia hiện nay ở trong kho dữ liệu Viện nghiên cứu Hán Nôm.
Theo đó, trấn Ba Đình được xây dựng với ngụ ý là đảm đương trào lưu văn hoá lớn hay còn có thể được hiểu theo một số ý kiến rằng Trấn Ba Đình như cột trụ chống lại văn hóa phức tạp giai đoạn giữa thế kỉ XIX.
Nhưng trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi đình đã bị đạn pháo phá sập. Và cho đến năm 1951-1952, một số nhà hảo tâm đã đóng góp công của cho dựng lại ngôi đền như nguyên mẫu.
Theo đó những câu đối khắc vào những cây cột đá cũng được phục chế nguyên văn. Đôi câu đối này khắc trên hai trụ đá quay mặt vào đền:
Miếu mạo sơn dung tương ẩn ước
Thiên quang vân ảnh cộng bồi hồi
Nghĩa là:
Dáng miếu hình non cùng ẩn hiện
Bóng mây ánh nắng cứ dùng dằng
Đôi câu đối này khắc trên trụ ngoảnh ra hồ
Kiếm hữu dư linh quang nhược thủy
Văn tòng đại khối thọ như sơn
Nghĩa là:
Kiếm ngậm khí thiêng ngời tựa nước
Văn hoà trời đất thọ như non
Và bây giờ, xin mời các bạn quay lại với điểm tham quan chính của chúng ta ngày hôm nay, ẩn hiện dưới những tán cổ thụ um tùm, chính là khu trung tâm của quần thể di tích đền Ngọc Sơn, cả về mặt kiến trúc cũng như thờ phụng.
Đền có 3 nếp nhà chính: nếp ngoài nơi bái đường – nơi hành lễ trước khi vào đền, nếp giữa là nơi thờ Văn Xương, Quan Vũ và Lã Tổ, nếp sau là nơi thờ Trần Hưng Đạo. Các bạn thân mến! Không gian chúng ta đang đứng đây chính là nhà Đại Bái, chính giữa bái đường đặt một hương án lớn, đây là nơi hành lễ trước khi vào đền. Đặc biệt, hai bên hương án có đôi chim anh vũ tức chim vẹt. Vâng, chắc hẳn là các bạn đang rất thắc mắc tại sao trong khu nhà Đaị Bái lại thờ hai con chim vẹt phải không ạ? Tôi xin đc giải đáp, đó chính là con vẹt đã từng giúp nghĩa quân Lam sơn khi nghĩa quân bị bao vây trong rừng. Lúc ấy lương thực cạn kiệt, nghĩa quân chưa biết lấy gì ăn để thoát khỏi tềnh trạng đó vã bỗng dưng họ nhìn thấy vẹt ăn quả chín. Tướng quân bèn sai quân lính ăn thử và thấy không sao, sau đó họ lấy hạt đem gieo trồng. Nhờ vậy mà nghĩa quân Lam Sơn đã thoát nạn và đánh thắng kẻ thù. Chính vì thế mà hình tượng vẹt đc thờ trong đền. Theo quan niệm dân gian, thờ vẹt là cầu mong sự no đủ.Tiếp theo, xin mời các bạn theo tôi vào thăm khu trung đường.
Như các bạn có thể thấy phía trong cùng kia là tượng Văn Xương, ở giữa là Lã Tổ và ngoài cùng là Quan Vũ. Trước tiên tôi xin giới thiệu về Văn Xương Đế Quân hay còn gọi là Tử Đồng Quân, nguyên là vị thần ở Tử Đồng, Tử Xuyên đời Tần, họ Trương tên là Á Tử. Sau khi đạo thư “Thanh Hà Nội Truyền” – một cuốn sách viết về đạo giáo ở Trung Quốc đời Tống tuyên xưng Trương anh Tử thành tiên, thăng thiên đc Ngọc hoàng giao cho quản lí phủ Văn Xương, cai quản công danh, lộc vị dưới trần gian. Tương truyền vị thần này có thể cho các vị nhân sĩ khoa cử đc thuận lợi. Do vậy, các văn nhân, quan lại, nho sĩ đều tôn thờ. Trong những năm Chân Tông Hàm Bình thời nhà Tống (998 – 1003) được phong là Anh Hiển Vũ Liệt vương. Năm Hồng trị nguyên niên nhà Minh (1448) Trương Cửu Công Tần yêu cầu các học cung trong thiên hạ phải lập đền thờ Văn Xương. Và đền thờ Văn Xương có ở khắp nơi. Đến đời Lê Thánh Tông, aứ thần Việt Nam là Nguyễn Công Định đi sứ ở Trung Quốc mới đem tượng thần về thờ chung ở Chân Vũ Quán với Huyền Thiên Chấn Vũ. Đến năm 1843, hội hướng thiện mới rước thần về thờ ở đền Ngọc Sơn, hai bên tượng Văn Xương có thị nữ đứng hầu.
Bây giờ tôi xin được giới thiệu đôi chút về Lã Tổ. Lã Tổ tức Đồng Tân, cũng là thần của đạo giáo. Theo truyền thuyết ông là người đất kinh triệu đời Đường. Do hai lần đi thi nhưng không đỗ nên bỏ lên núi Chung Sơn tu luyện kiếm pháp, học thần thư và luyện đan chữa bệnh. Ông được coi là một trong 8 vị tiên được đời sau thờ cúng. Hai bên tượng Lã Tổ có tượng Thiên Khôi, Thiên Việt. Thiên Việt có hình dáng một ông lão đạo mạo. Thiên Khôi mang hình dáng một tiểu quỷ mặt xanh, có sừng, mình trần, quần ngắn, cổ tay, cổ chân đeo vòng, thắt lưng đỏ, tay trái cầm sách, tay phải cầm bút dơ ngang đầu, một chân đứng trên lưng con giao long, một chân giơ lên.
Và bây giờ xin mời các bạn vào thăm gian cuối của ngôi đền, đó là hậu cung. Gian này hẹp lòng nhưng cao hơn cả là nơi thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc đã ba lần đại phá quân nguyên sang xâm lược nước ta ở thế kỉ 13. Phía bên phải của tượng Trần Hưng Đạo là tượng Trần Liễu, cha của ông, phía trái tượng Trần Hưng Đại là tượng thần linh Thổ Địa. Việc thờ Hưng Đạo vương Trần Quốc tuấn ở hậu cung – nơi thiêng liêng nhất – chứng tỏ tính trội của tín ngưỡng bản địa. Chắc hẳn các bạn đều biết Trần Quốc Tuấn là nhân vật lịch sử đích thực, từng là Tiết chế (tổng chỉ huy quân đội) đập tan các lần giặc Nguyên xâm lược ta hồi cuối thế kỷ XIII.
Trong tâm linh người Việt Nam, ngoài tư cách là vị anh hung dân tộc với nhiều chiến công mà nổi bật là trận Bạch Đằng vĩ đại lưu danh thiên cổ, người còn là đức Thánh Trần đầy tài trí uy lực diệt được mọi ma quỷ như khi sống người từng diệt con tà Phạm Nhan, một loại quỷ chuyên bức hại phụ nữ. Thêm vào đó với tước phong rất trọng thị là Thượng phụ thượng trật thượng tướng quân, bình Bắc đại nguyên soái Hưng Đạo đại vương. Người càng trở thành đối tượng được nhân dân nhiều đời nối tiếp thần thánh hóa và phụng thờ. Trong cấm điện có những hoành phi, câu đối ca ngợi người như: Hạp khí lăng tiêu (Hạo khí ngất trời) hay Thiên cổ vĩ nhân (vĩ nhân của muôn đời).
Vâng thưa các bạn như vậy sau 2 giờ thăm quan tôi và các bạn chúng ta đã cùng nhau thăm quan đền Ngọc Sơn một trong những điểm du lịch nổi tiếng củathủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến tự hào của chúng ta, hy vọng với những thông tin tôi vừa giới thiệu sẽ giúp các bạn tăng thêm sự hiểu biết của minh về văn hóa lịch sử con người Niệt Nam. Các bạn còn có những câu hỏi nào thăc mắc không ạ? Tôi sẵn lòng trả lời các câu hỏi của các bạn trong tầm hiểu biết của mình. Nếu như khong có câu hỏi thắc mắc nao nữa chúng ta sẽ kết thúc buổi thăm quan tại đây. Trước khi chia thay mặt cho ban quản lí khu di tích, tôi xin chúc các bạn luôn có sức khỏe, hạnh phúc, thành cồng trong học tập. Hy vọng chúng ta sẽ được gặp nhau trong các chương trình du lịch khác. Xin chào tạm biệt và hẹn gặp lại.