Khamphadisan.com – Thành cổ Hoàng Đế là một trong những di tích lịch sử nổi tiếng tại Bình Định, nơi đây trong lịch sử đã gắn liền với ba thời kỳ lịch sử: Vương quốc Chămpa – Nhà Tây Sơn – Nhà Nguyễn. Khu thành tọa lạc trên địa bàn xã Nhơn Hậu và thị trấn Đập Đá – Thị xã An Nhơn cách Tp.Quy Nhơn chừng 20km về hướng Tây Bắc. Thành cổ Hoàng Đế đã được Bộ VHTT-DL công nhận là di tích Lịch sử cấp quốc gia vào năm 1982.
Thành cổ Hoàng Đế này từng là kinh đô của vương quốc Chămpa gắn với tên gọi là thành Đồ Bàn. Từ khoảng thời gian từ thế kỷ 11 – thế kỷ 15, kinh đô của Chămpa đóng ở thành Đồ Bàn. Đến năm 1471, khi vua Lê Thánh Tông tiến hành đem quân chinh phục mãnh đất Chămpa đã sát nhập vùng đất Bình Định vào lãnh thổ của Đại Việt thì thành Đồ Bàn đã không còn giữ được vai trò là kinh đô của vưong quốc Chămpa. Cho tới khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn diễn ra vào thế kỷ 18 thì khu tòa thành này một lần nữa đã phát huy vai trò lịch sử của mình. Sau khi chiếm được thành Quy Nhơn (nay thuộc phường Nhơn Thành – Thị xã An Nhơn) Nguyễn Nhạc đã quyết định chọn thành Đồ Bàn làm đại bản doanh cho phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Ông đã cho xây dựng vào năm 1775 trên cơ sở thành Đồ Bàn của Vương quốc Chămpa để lại. Vào 1778, cũng tại tòa thành này, Nguyễn Nhạc chính thức đăng cơ ngôi Hoàng Đế, đã lấy niên hiệu là Thái Đức. Từ đây, thành Đồ Bàn lại chính thức mang tên Thành Hoàng Đế , trở thành kinh đô chính thức của chính quyền Trung ương Hoàng Đế Thái Đức – Nguyễn Nhạc.
Vào 1793, Hoàng Đế Thái Đức – Nguyễn Nhạc mất, thành Hoàng Đế mất cũng đi vai trò là kinh đô của chính quyền trung ương và lại trở thành một tòa thành mang tính chất phòng ngự trấn giữ thành Quy Nhơn. Khoảng thời gian từ năm 1793 – 1802 là thời gian của bước đường tụt dốc của triều đại Tây Sơn, thành Hoàng Đế là địa điểm xảy ra liên tục những trận chiến quyết liệt nhất giữa nghĩa quân của Tây Sơn và quân đội Nguyễn Ánh. Trong đó, có trận chiến tiêu biểu nhất là vào 1799, khi quân Nguyễn do Chưởng hậu quân Võ Tánh đánh chiếm được thành Quy Nhơn. Để ghi nhớ sự kiện này, Nguyễn Ánh đã chính thức cho đổi tên là thành Bình Định, giao Võ Tánh và Ngô Tùng Châu cùng ở lại trấn thủ thành. Mùa đông vào năm 1799, bước sang năm 1800, 2 vị tướng của nhà Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đã đem quân vây đánh thành Bình Định. Trận chiến này khá kéo dài, quân Võ Tánh bị vây hãm trong thành, trong thế sức kiệt, lương thực hết. Khi quân binh trong thành đã không còn đủ sức để chống trả, Ngô Tùng Châu đã uống thuốc độc tự vẫn. Sau đó, Võ Tánh viết thư gửi cho Trần Quang Diệu xin tha tội cho tất cả tướng sĩ dưới chướng của mình rồi lên lầu bát giác châm lửa tự thiêu. Đến năm 1801, sau khi Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng chiếm được thành, đã cảm động trước lòng can đảm của hai tướng nhà Nguyễn nên đã cho an táng tử tế 2 vị tướng quân và tha hết quân Nguyễn.
Năm 1802, triều đại Tây Sơn chính thức sụp đổ và sứ mệnh của thành Quy Nhơn cũng kết thúc tại đây. Nguyễn Ánh lên ngôi, đã lấy niên hiệu là Gia Long, chọn thành Phú Xuân làm kinh đô. Từ đây, thành Quy Nhơn đã chính thức được gọi là thành Bình Định và trở thành lị sở của trấn Bình Định. Năm 1805 nhà Nguyễn tiến hành cho lập lăng Võ Tánh ngay trên nền điện Bát Giác của thành cổ Hoàng Đế và dùng lầu Bát Giác này làm nơi hương khói gọi là Bát Giác lầu. Đến năm 1815, lị sở của trấn Bình Định lại được dời vào phía Nam (thuộc thôn Kim Châu, nay là khu vực Nguyễn Thị Minh Khai – thị trấn Bình Định). Nhà Nguyễn đã cho triệt hạ hết tất cả các cung điện cũ của thành cổ Hoàng Đế, dỡ đá ong của thành cũ mang đi xây thành mới, trừ lầu Bát Giác ra được sửa sang lại làm Đền Song Trung thờ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu (sau này Lầu Bát Giác còn có tên gọi là Đền Chiêu Trung).
Trải qua những quảng thời gian thăng trầm của lịch sử, hiện nay trong khuôn viên Tử Cấm Thành và thành cổ Hoàng Đế vẫn còn lưu giữ nhiều dấu tích của vương quốc Chămpa – Nhà Tây Sơn và Nhà Nguyễn. Các kiến trúc của các thời kỳ nằm đan xen lẫn nhau, tạo nên sự phong phú và nét đặc trưng của di tích.
Thành cổ Hoàng Đế nguyên là một tổng thể kiến trúc hình chữ nhật, gồm có ba vòng thành: Thành Ngoại – Thành Nội và Tử Cấm Thành. Thành ngoại có chu vi là 7400m, hiện nay phần còn lại của tường thành cao từ 3 – 6m, trên mặt bờ thành phía Nam còn lưu giữ hai thanh đá cắm thẳng đứng cao 3m, đó là dấu tích của thành Đồ Bàn của người Chăm, cho đến nay vẫn chưa xác định được ý nghĩa của hai thanh đá đó đối với kinh đô Đồ Bàn.
Khu vực thành nội còn được gọi là Hoàng Thành có hình chữ nhật dài, với chu vi 1600m, chiều dài 430m, chiều rộng 370m. Thành Nội đã bị phá hủy hoàn toàn và hầu như không còn gì, những dấu vết còn rót lại cho thấy tường thành từng được xây bằng đá ong và đắp đất, có 3 cửa ở 3 mặt Nam – Đông – Tây, cửa chính hướng về phía Nam gọi là cửa Tiền. Trước cửa Tiền hiện còn hai tượng voi đá gồm một voi đực và một voi cái.
Bên trong khu vực Thành Nội là Tử Cấm Thành cũng có hình chữ nhật với tổng chu vi 600m, chiều dài 174m và chiều rộng 126m, cửa chính quay về hướng Nam, còn được gọi là Nam Lâu. Tường thành đắp bằng đất và đá ong hai mặt dày 1,5m, bờ tường cao nhất hiện còn khoảng 3m. Nơi đây hiện vẫn còn lưu giữ 3 tượng sư tử đá có niên đại từ thế kỷ 12; hai hồ bán nguyệt (còn gọi là thủy hồ) dài 17m và rộng 10m có độ sâu 1,6m; lầu Bát Giác và khu lăng thờ hai viên tướng nhà Nguyễn là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Đây là một khu lăng mang phong cách của mỹ thuật thời Nguyễn nằm trong quần thể của di tích. Đứng từ đây có thể chiêm ngưỡng Tháp Cánh Tiên từ xa xa.
Với những dấu tích và những hiện vật nét kiến trúc còn sót lại cũng như giá trị về một tòa thành đã từng hai lần giữ đóng vai trò là kinh đô trong lịch sử, thì thành cổ Hoàng Đế xứng đáng là một điểm đến kỳ thú trong hành trình đi qua những vùng kinh đô việt cổ của đất nước.
Có thể bạn quan tâm:
- Kinh nghiệm du lịch Bình Định
- Khám phá mũi Vi Rồng – long mạch chốn trần gian
- Những đặc sản không thể bỏ qua tại Bình Định
binhqb94(Tổng hợp)
Theo: Du lịch Bình Định