Tỉnh Đồng Tháp là một trong 3 tỉnh thuộc Đồng Tháp Mười

Phía Bắc giáp với tỉnh Prey Veng thuộc Campuchia, phía Nam giáp với tỉnh Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ, phía Tây giáp với tỉnh An Giang, phía Đông giáp với tỉnh Long An và tỉnh Tiền Giang.

Tỉnh có hệ thống sông ngòi, kênh, rạch, chằng chịt nhiều ao, hồ lớn. Sông chính là sông Tiền (một nhánh của sông Mê Kông) chảy qua tỉnh với chiều dài 132km. Dọc theo hai bên bờ sông sông Tiền là hệ thống kênh rạch dọc ngang. Đường liên tỉnh giao lưu thuận tiện với trên 300km đường bộ và một mạng lưới sông rạch thông thương.

Đồng Tháp nằm trong vùng nhiệt đới, khí hậu chia hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.

Là một tỉnh nông nghiệp, Đồng Tháp sản xuất nhiều lương thực và các loại nông thủy sản có giá trị xuất khẩu. Đất đai Đồng Tháp màu mỡ bởi phù sa do hai con sông Tiền và sông Hậu cung cấp hàng năm, xóm làng trù phú giữa bốn bề cây cối xanh tươi. Vì thế Đồng Tháp được biết đến như mot vựa lúa của cả nước. Ở đây có giống lúa nổi một loài lúa mọc tự nhiên từ tháng 4, tháng 5 đến tháng 10 thu hoạch mà không cần chăm bón. Đồng Tháp cũng là vùng đầy triển vọng về các loại cây công nghiệp ngắn ngày như mía, bông, thuốc lá, đậu tương và cây ăn trái như xoài Cao Lãnh, nhãn Châu Thành, quít Lai Vung, bưởi Phong Hòa, chôm chôm, vú sữa có quanh năm.

Ở Đồng Tháp có nhiều tôn giáo như Cao Đài, Hòa Hảo, Phật giáo và Công giáo. Tính cách người Đồng Tháp mang đậm nét đặc trưng chung của đồng bằng Nam Bộ: cần cù, hiền lành, phóng khoáng, cởi mở và giàu lòng mến khách. Vùng đất Đồng Tháp Mười xưa nổi tiếng hoang vu với lắm bưng, trấp, đìa, bàu với bạc ngàn đưng, lác, năng, sen, súng và lau sậy … Đây là giang sơn của các loài động vật hoang dại như rắn, rùa, chuột, ếch, chim muông, cua, cá sấu … Tuy ngày nay con người đã khai khẩn và cải tạo đất để lập làng, tạo ruộng, những món ăn đặc sản miền Tây chế biến từ chuột, ếch, chim, tôm, cua, cá đồng … vẫn là những món ăn nổi tiếng của cả vùng cùng với bánh phồng tôm Sa Giang, nem Lai Vung, bánh xèo Mỹ Trà.

Về thăm Đồng Tháp du khách như trở về với cội nguồn thiên nhiên bởi bầu không khí trong lành, mát mẻ của những cánh đồng lúa phì nhiêu, đi trên những chiếc xuồng ba lá trên sông rạch để đến với khu di tích lăng cụ phó bảng Nguyễn Sinh sắc, đài liệt sĩ, khu di tích Gò Tháp, di tích kiến trúc cổ Kiến An Cung, vườn chim thiên nhiên lạ mắt ở Tháp Muời, vườn sếu qúi hiếm ở Tam Nông, khu căn cứ Xẻo Quýt, làng Hoa Kiểng Tân Qui Đông …

Nội dung chính

    Thị Xã Cao Lãnh

    Là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp. Sau ngày giải phóng đất nước 30-4-1975, tỉnh Đồng Tháp được thành lập và tên Cao Lãnh được dùng để đặt cho tỉnh lỵ là do danh xưng này rất nổi tiếng và trở thành đặc trưng của vùng đất này. Có huyền thoại nói rằng vào năm 1817, hai vợ chồng ông Đỗ Công Tường, thường gọi là Lãnh, từ miền Trung vào vùng đất này lập nghiệp. Ông bà đã chọn xã Mỹ Trà làm nơi định cư và lập ra một vườn quýt. Đến mùa quýt chín, những người đến mua đươc ông bà tiếp đãi niềm nở và những người bán được đối xử thân thiện … lần lần nơi này trở thành một cái chợ nhỏ. Chợ này trong ba năm đầu rất tấp nập, thu hút những người buôn bán vì thuận đường qua lại. Còn ông Đỗ Công Tường vốn thuộc dòng nho nhã, tính tình cương trực nên được những người trong làng cử làm “Câu Đương” (một chức vụ trong ban tề làng phụ trách việc hoà giải, dàn xếp những vụ xích mích, mâu thuẫn của mọi người trong dân làng). Ở vùng này người ta nhắc tên ông bà suốt ngày. Vì để tỏ niềm tôn kính, họ gọi tên là Câu Lãnh, thế rồi trong lúc mọi người đang sống vui vẻ, chan hoà tình cảm với nhau thì năm 1820, xã Mỹ Trà bị một cơn dịch bệnh hoành hành. Mỗi ngày trong làng đều có người chết, có nhiều gia đình chết gần hết… Ngày ấy người dân ở đây còn tin tưởng vào thần linh nên cho rằng là Diêm Vương bắt lính, người nào đến số bị bệnh thì chịu bó tay, không phương cách gì cứu chữa. Vả lại vào thời ấy thuốc men rất thiếu thốn, người ta không thể trị được chứng bệnh chết người này nên người ta chỉ mong đợi vào sự che chở của đấng bề trên mà thôi, không thể ngồi yên nhìn cảnh đau thương, ông bà Câu Lãnh liền lập bàn thờ ngoài trời nguyện xin ơn trên cho ông bà chết thay cho dân làng. Một tuần sau, bà thọ bệnh từ trần. Đang lo tẩm liệm bà thì hai ngày sau ông cũng qui tiên. Dân làng lo mai táng ông bà xong thì bệnh dữ hết hoành hành, mọi người thoát khỏi móng vuốt của thần chết. Ơn đức của ông bà được mọi người truyền tụng. Đến năm 1907, nhân dân xã Mỹ Trà cùng nhau lập miếu thờ và đặt tên chợ gần nơi ông bà định cư là chợ Câu Lãnh. Dần dần tiếng Câu nói trại thành Cao. Và Cao Lãnh được nhìn nhận như một địa phương từ năm 1914. Năm 1916, có một nhóm người từ Bình Định vào định cư tại Cao Lãnh bị mắc chứng bệnh khắc phong thổ, uống thuốc hoài không hết. Tương truyền rằng có nhiều người vào miễu cầu nguyện được ông bà báo mộng bảo vào miễu lấy nước trong miễu uống. Mọi người làm theo lời báo mộng ấy và quả nhiên đã khỏi bệnh. Tiếng lành về sự linh thiêng của ông bà Câu Lãnh lan truyền khắp nơi và nổi tiếng khắp vùng Nam Bộ.

    Sau năm 1975, hai tỉnh Sa Đéc và tỉnh Kiến Phong đã sát nhập lại thành tỉnh Đồng Tháp. Nơi đặt văn phòng ủy ban hành chính tỉnh được gọi là thị xã Cao Lãnh. Thị xã nằm bên bờ sông Cao Lãnh có chiều dài khoảng 15km, là một đoạn sông Tiền tách ra chảy qua thị xã Cao Lãnh rồi sau đó lại nhập vào sông Tiền và đổ ra biển Đông. Ngày nay với sự đầu tư hợp lý và đúng mức của các ban ngành lãnh đạo tỉnh, thị xã Cao Lãnh trở thành trung tâm kinh tế trọng yếu của vùng Đồng Tháp Mười.

    Từ thị xã Cao Lãnh chúng ta có thể đi tham quan khu di tích Gò Tháp, khu di tích kiến trúc cổ Kiến An Cung, vườn chim sếu quí hiếm Tam Nông cũng như các vườn cây ăn trái nổi tiếng ở Châu Thành, Lai Vung, Thạnh Hưng… và ở ngay thị xã Cao Lãnh chúng ta có thể thăm mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc, một người giàu lòng yêu nước và là người sinh thành cho dân tộc Việt Nam một người con ưu tú là: chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

    Khu Di Tích Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929)

    Tháng 8 năm 1975, lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp đã cho xây lại ngôi mộ cụ khang trang, đẹp đẽ hơn. Trên vòm mộ là hình một cánh sen úp xuống có chạm trổ 9 đầu rồng mang ý nghĩa tượng trưng cho con Rồng Cháu Tiên đồng thời bao hàm ý nghĩa là cụ Nguyễn Sinh Sắc sẽ mãi mãi yên nghỉ trong sự che chở, kính trọng của người dân đồng bằng sông cửu long ny. Bên cạnh ngôi mộ là tượng đài cách điệu hình búp sen như tượng trưng cho người con làng sen đã sống thanh cao và trong sạch. Xung quanh chân tượng đài là hồ nước. Nếu để ý một chút quý khách sẽ thấy rằng hình thể của hồ nước rất giống phần diện tích của tỉnh Đồng Tháp trên bản đồ. Trong khuôn viên khu mộ rộng 1hécta, còn có nơi thờ bà Hoàng Thị Loan, người vợ yêu quý của cụ phó bảng và một ngôi nhà sàn được xây dựng theo đúng kích thước ngôi nhà sàn nơi Bác Hồ đã sống và làm việc tại Hà Nội.

    Vài Nét Về Khu Lưu Niệm Nguyễn Sinh Sắc

    Khu lưu niệm Nguyễn Sinh Sắc nằm cạnh chùa Hòa Long (tức Miễu Trời Xanh ngày xưa) cách trung tâm thị xã Cao Lãnh chừng một cây số rưỡi, tren đất qua bên phà Cao lãnh.

    Toàn khu lưu niệm rộng gần 4 hec ta, chia làm hai khu vực: khu vực mộ cụ phó bảng, khu vực Nhà Sàn – Ao Cá Bác Hồ. Qua cổng, du khách gặp ngay nhà khách khang trang phía tay phải. Đây cũng là nơi làm việc của Ban giám Đốc khu lưu niệm. Trong đó có phòng chiếu phim tài liệu phục vụ du khách.

    Theo lối đi tráng nhựa, một bên là hàng vú sữa, một bên là hàng dương thẳng tấp, chừng 100m rẽ về phía tay trái đến cổng tam quan – cổng chính vào khu mộ phó bảng. Khu vực này hình chữ nhật, diện tích 1hecta. Bao bọc chung quanh là hàng rào xi-măng đơn giản, thanh mảnh như những hoa văn trang hong vẻ đẹp của khuôn viên mà không làm khu mộ cách bức với vườn ruộng xanh tươi bên ngoi. Khu mộ khởi công xây dựng ngày 22-8-197, khánh thành 13-2-1977.

    Những công trình chính là: Vòm mộ, hồ Sao, nhà Kiếng và nhà trưng bày.

    Vòm Mộ

    Quay về phía Đông, cao trên 10 thước, là một cánh hoa sen cách điệu có dáng dấp bàn tay xòe úp xuống, trên là 9 đầu rồng cách điệu đậm net dân gian. Vòm mộ tượng trưng cho nhân dân đồng bằng sông Cửu Long, Đồng Tháp che chở, ấp yêu ngôi mộ phó bảng…

    Ngôi mộ giữ vị trí cũ; đầu tiên là ngôi mộ đất. Sau đó nhân dân đổ núm xi măng. Năm 1954, trước khi tập kết chuyển quân ra Bắc, các đơn vị bộ đội đã xây ngôi mộ bằng gạch, có trụ xi măng và lan can sắt bao chung quanh. Bia mộ ghi : “cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy – Nhà chiến sĩ cách mạng –mất ngày 27-11 năm Kỷ Tỵ (1929). Quân dân chánh Long Châu Sa lập”.

    Hiện nay, ngôi mộ được tôn cao lên và ốp đá hoa cương, núm mộ hình hộp chữ nhật (2m x 1m x 0.9m), màu xám tro, yên vị trên vòm mộ bằng đá mài màu trắng, hình lục giác không đều mở rộng dần ra hai bên và phía trước. Phía trong vòm mộ là bệ thờ bằng đá mài. Bên trên có tượng chân dung cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, lư hương đặt ở phía ngoài núm mộ.

    Hồ Sao

    Nằm giữa khu vực, hình ngôi sao năm cánh đường kính 30m. Ở giữa hồ sừng sững một đài sen trắng cách điệu ốp lá Italy màu trắng xám, cao 6.5m tượng trưng cho cuộc đời thanh bạch, trong sáng của cụ phó bảng Nguyễn sinh sắc, cũng là biểu tượng quê hương Kim Liên _ Đồng Tháp vươn thẳng giữa lịng tổ quốc Việt Nam.

    Hồ Kiếng

    Cách hồ sao 30m, phía tay phải (trong nhìn ra). Nhà kiếng hình chữ nhật thể hiện theo kiểu dáng nhà sàn. Ngịai những mảnh tường thấp và coat ximăng tô đá rửa, các phòng đều lắp đặt kính 5 ly (nên gọi nhà Kiếng) .
    Nhà kiếng cũng là nhà khách trong những buổi tiếp tân đông người. Các phòng tại đây đều thoáng rộng, được trưng bày màu xanh dịu mát. Các hình ảnh chủ yếu giới thiệu về quê hương, thời niên thiếu của Bác Hồ.

    Nhà trưng bày

    Đối diện nhà kiếng qua cột cờ giữa sân, gây thú vị cho du khách với lối kiến trúc hình bát giác vụt cao hẳn lên so với dãy nhà hình hộp chữ nhật nối liền với nó.

    Phòng trưng bày về cụ Nguyễn Sinh Sắc

    Nam gọn trong hình bát giác (mỗi cạnh 5m), nền bằng đá rửa trắng lấm tấm hạt đen. Đai trưng bày màu vàng sậm, viền nâu trên nền tường xanh lợt với 4 chỗ thông gió chia đều. Vách va nóc cách nhau một khoảng trống dễ nhận ánh sáng mặt trời cũng như việc bố trí thêm đèn ne-ong. Ở đây du khách nhìn thấy ngay tiểu sử tóm tắt của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc lồng trong khung kính bằng gỗ giáng hương, chữ lộng màu trắng nổi lên trên nền nhung đỏ. Bản tiểu sử đặt trên bệ gỗ tròn thay cho tấm bình phong chia làm hai lối ra vào.

    Theo chiều kim đồng hồ, du khách lần lượt tham quan các hình ảnh, hiện vật về cuộc đời cụ phó bảng. Có thể nêu 6 chủ đề chính:

    Chủ đê 1: Quê Hương – Thời Niên Thiếu Thưở Hàn Vi

    Chủ đề 2: Đỗ Đạt – Làm Quan

    chủ đề 3: Từ Quan – Vào Nam

    Chủ đề 4: Cao Lãnh V Những Năm Cuối Đời

    Chủ đề 5: Những Di Vật Của Cụ Phó Bảng

    Chủ đề 6: Bảo Vệ Và Xây Dựng Mộ Cụ Phó Bảng

    Đến viếng thăm mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc là chúng ta đã viếng thăm cả gia đình chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã cống hiến cả cuộc đời của mình cho tổ quốc cho dân tộc.

    Cuộc Đời Cụ Nguyễn Sinh Sắc

    Theo gia phả họ Nguyễn Sinh ở Kim Liên, cách đây trên bốn trăm năm, ông Nguyễn Bá Phổ đến và khởi dựng ra dòng họ Nguyễn ở đây. Đến thế hệ thứ tư, Nguyễn Sinh dần đổi tên Nguyễn Bá ra Nguyễn Sinh.

    Thế hệ thứ năm có ông Nguyễn Sinh Vật dự kỳ thi hội năm Tân Mão (1651).

    Thế hệ thứ sáu, Nguyễn Sinh Trí, năm 17 tuổi dự kỳ thi Hương khoa Quý Sửu (1673) đậu Hiệu sinh (Tú Tài), năm ba mươi tư tuổi dự kỳ thi Hội khoa Canh Ngọ nhưng chỉ lọt đến Tam trường.

    Thế hệ thứ tám Nguyễn Sinh Hải, lập chiến công to, được vua Lê Cảnh Hưng phong sắc khen thưởng.

    Ông nội Bác Hồ là Nguyễn Sinh Nhậm (tức là Nguyễn Sinh Vượng) thuộc thế hệ thứ mười. Gia đình ông vào loại khá giả ở Làng Sen. Ông lập gia đình sớm nhưng hiếm con, khi sinh người con trai là Nguyễn Sinh Trợ (sau nhân dân thường gọi là Nguyễn Sinh Thuyết) thì bà Nhậm mất. Nuôi con đến tuổi thành niên và lập gia đình riêng cho con, ông mới cưới người vợ kế là Hà Thị Hy, một cô gái có nhan sắc, thông minh tài hoa ở làng Mậu Tài (làng Sày) cùng thuộc xã Chung Cự. Bà Hy là con gái ông Hà Văn Cẩn, một người nổi tiếng về đàn hát, thuộc bậc trung lưu. Nhà ông thường nuôi thầy dạy học cho con cái nhưng ông lại không màng chuyện thi cử. Bà Hà Thị Hy được cha rất mực yêu quý, truyền cho tất cả vốn hiểu biết của mình về sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật của quê hương xứ sở. Bà Hà Thị Hy về làm bạn đời với ông Nguyễn Sinh Nhậm được ít lâu, cuối năm Nhâm Tuất (1863) sinh con trai, đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc. Cuộc sống của gia đình rất êm ấm. Nguyễn Sinh Sắc mới ba tuổi thì ông Nguyễn Sinh Nhậm qua đời, sau đó một năm bà Hà Thị Hy cũng tạ thế. Nguyễn Sinh Sắc mồ côi cha lẫn mẹ lúc bốn tuổi, phải ở với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Sinh Trợ.

    Gia đình Nguyễn Sinh Trợ lúc này đang sa sút, gặp nhiều khó khăn, Nguyễn Sinh Sắc không có điều kiện cắp sách tới trường. Nhưng Nguyễn Sinh Sắc là chú bé thông minh, hiếu học và khát học nên đã học lỏm được ở bạn bè ít chữ nghĩa. Thường ngày, buổi sáng dắt trâu ra đồng, khi đi qua cổng nhà thầy đồ Vương Thúc Mậu, bé Sắc thường cột trâu lại dưới gốc cây tre và đứng nghe thầy đồ giảng bài, có lúc mải mê quên cho trâu ra đồng ăn cỏ.

    Ngày ấy cụ Hoàng Đường, một thầy đồ ở làng Hoàng Trù được nhân dân tôn kính gọi là cụ Tú, thường đi lại thăm bà con bên ngoại ở làng Kim Liên và thỉnh thoảng ghé thăm cụ Vương Thúc Mậu, bạn bè cùng lớp. Những lần đến Kim Liên cụ thường thấy một chú bé ngồi trên lưng trâu chăm chú đọc sách. Vốn là một thầy đồ quý mến trò, cụ rất có cảm tình với chú bé hiếu học ấy.

    Ngày tết Mậu Dần (1878), khi hầu hết trẻ con trong làng Kim Liên đang mải mê với các trò chơi tết, cụ Đường lại thấy chú bé ấy vẫn đọc sách trên lưng trâu, cảnh tượng đó đã gây cho cụ niềm xúc động sâu sắc. Cụ hỏi tên tuổi và hoàn cảnh cậu bé rồi đến gặp ông Nguyễn Sinh Trợ xin đưa bé Sắc về nhà mình nuôi dạy. Vì hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn và tin tưởng ở cụ Đường, nên vợ chồng ông Trợ đồng ý.

    Từ đó, Nguyễn Sinh Sắc có đủ điều kiện để học hành. Nhờ sự chăm sóc dạy dỗ của cụ Đường, và đúng như dự cảm của cụ, Nguyễn Sinh Sắc học tập tấn tới rất nhanh. Chẳng bao lâu, thiên tư của Nguyễn Sinh Sắc bộc lộ ngày càng rõ, hứa hẹn một tương lai tươi sáng trên con đường cử nghiệp. Tiếng tăm học giỏi của Nguyễn Sinh Sắc đồn đại khắp vùng. Hồi đó, ở làng Kim Liên có Nguyễn Đậu Tài học giỏi nổi tiếng, được nhân dân suy tôn là “thần đồng”. Lúc này cả vùng Chung Cự thường truyền nhau câu “Sắc, Tài ai kém ai đâu” để ca tụng hai người học giỏi. Sau hai năm học tập, Nguyễn Sinh Sắc có thể đàm đạo văn thơ với những học sinh lớp trước.

    Cụ Đường thương yêu Nguyễn Sinh Sắc như con đẻ. Sau hai năm, cảm thấy trình độ mình có hạn, cụ quyết định gửi Nguyễn Sinh Sắc đến làng Đông Chữ, xã Thịnh Trường (nay là xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc) cách Hoàng Trù trên 30km để học với thầy đồ Nguyễn Thức Tự, người nổi tiếng uyên bác và có lòng yêu nước.

    Vợ cụ Hoàng Đường quê ở làng Kẻ Sía, xã Hưng Đạo. Huyện Hưng Nguyên, là con nhà nho Nguyễn Văn Giáp, người đậu bốn khoa tú tài. Khi cụ Nguyễn Văn Giáp đậu tú tài lần thứ hai cũng là lúc vợ sinh con gái đầu lòng cho nên đặt tên con là Nguyễn Thị Kép.

    Ba năm sau, khi Nguyễn Sinh Sắc đã đến tuổi thành niên, cô Hoàng Thị Loan, con gái đầu lòng của cụ Đường cũng đã lớn và ngày càng có cảm tình với cậu con trai thông minh và tốt nết ấy. Cụ Đường quyết định chọn Nguyễn Sinh Sắc làm con rể của mình. Ý định này của cụ lúc đầu chưa được cụ bà Nguyễn Thị Kép đồng tình vì không môn đăng hộ đối. Cụ phải kiên trì bàn bạc, tìm mọi cách thuyết phục. Cụ Nguyễn Văn Giáp là nhà nho tân tiến nên đã ủng hộ ý định của con rể, khuyên nhủ con gái mình nên yêu thương, đùm bọc lấy người có tài, có đức gặp phải hoàn cảnh éo le.

    Cuối năm 1881, Nguyễn Sinh Sắc và Hoàng Thị Loan làm lễ hứa hôn. Hai năm sau (1883) đám cưới được tổ chức tại làng Hoàng Trù. Ông bà cụ Hoàng Đường đã dựng ngôi nhà tranh ba gian trong vườn nhà mình để cho đôi vợ chồng mới cưới có chỗ ở riêng.

    Năm 1884, vợ chồng ông Nguyễn Sinh Sắc sinh người con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Thanh (Bạch Liên). Bốn năm sau (1888) sinh con trai Nguyễn Sinh Khiêm (Tất Đạt). Năm 1890 cậu bé Nguyễn Sinh Cung (Tất Thành) ra đời. Đồng thời năm đó ông Nguyễn Sinh Sắc trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh của huyện Nam Đàn do Huấn đạo phủ Anh Sơn và Giáo thụ huyện Nam Đàn tổ chức.

    Khoa thi Tân Mão (1891) ông Nguyễn Sinh Sắc dự thi Hương lần đầu tại trường Nghệ An (Vinh) cùng với Vương Thúc Quý và Nguyễn Đậu Tài ở làng Kim Liên. Nguyễn Đậu Tài phải bỏ thi về lo tang cha, Vương thúc quý đậu cử nhân, còn Nguyễn Sinh Sắc chỉ lọt nhị trường, không đủ điểm vào thi Tam trường.

    Ngày mồng 7 tháng 4 năm Quý Tỵ (1893) cụ Hoàng Đường qua đời. Băn khoăn lớn về việc chưa đỗ đạt để báo hiếu với cụ Đường, ông Nguyễn Sinh Sắc đã quyết tâm ôn tập, rèn luyện văn chương. Khoa thi Hương Giáp Ngọ (1894) ông đậu Cử Nhân.

    Sau lễ xướng danh kỳ thi Hương khoa Giáp Ngọ ở trường thi Nghệ An, Tổng đốc An Tĩnh Trần Văn Phác tiếp các Tân Khoa Cử Nhân ở hành cung. Làm lễ bái mạng và yến tiệc xong, họ ngâm vịnh hát xướng đến tận khuya. Đúng giờ Ngọ (12 giờ trưa) hôm sau, các huyện, xã đến đón rước các vị Tân khoa về làm lễ vinh quy.

    Ông Nguyễn Sinh Sắc không dự lễ hát xướng mà về nghỉ tại nhà một người bà con họ Hoàng Nghĩa (bà con bên cụ Đường) ở Vinh. Rạng sáng hôm sau, ông cắp bộ áo mũ Cử Nhân và chiếc ô đi bộ về làng. Trong khi đó trên đường từ Vinh về Nam Đàn có các đoàn cờ trống, võng lọng đi đón rước những người đậu đồng khoa với ông, cùng quê ở Nam Đàn.

    Vốn không muốn khoa trương danh vị về làng, ông Sắc lấy lý do đang chịu tang bố vợ, không tổ chức ăn mừng mà chỉ làm lễ bái ở nhà thờ, nhà thánh, rồi chuẩn bị ôn luyện để năm sau thi Hội.

    Nhiều người tấm tắc khen ngợi, khâm phục về đức khiêm tốn giản dị của ông, song cũng không thiếu gì người cho rằng ông làm như vậy là không đúng với nghi thức đón rước Tân khoa.

    Giữa năm 1895, lần đầu tiên ông Sắc vào Kinh đô Huế dự thi hội khoa Ất Vị. Khoa này không đậu, ông xin vào học trường Quốc Tử Giám. Theo thể lệ của Triều đình hồi đó, muốn vào học trường Quốc Tự Giám phải có tiêu chuẩn sau đây:

    Tôn sinh (con cháu các Tôn thất) do phủ Tôn nhân giới thiệu.

    Ấm sinh (con quan lại cao cấp) ưu tiên loại 2.

    Cử nhân đã trúng thi Hội một kỳ.

    Ông Nguyễn Sinh Sắc đã trúng thi hội một kỳ nên được chấp nhận vào học.

    Sinh viên trường Quốc Tử Giám hồi đó được cấp học bổng theo hai hạng. Hạng 1 là hạng ưu tiên, mỗi tháng được 4 quan tiền, 3 phương gạo, 1 phương dầu. Hạng 2, mỗi tháng được 2 quan tiền và 2 phương gạo.

    Ông Nguyễn Sinh Sắc được cấp học bổng hạng 2, gia đình lại không có tiền gạo cấp thêm nên không đủ điều kiện kinh tế theo học. Nhưng với tấm lòng tha thiết học tập, ông đã trở về Hoàng Trù bàn với vợ giúp mình. Bà Hoàng Thị Loan vui vẻ gửi người con gái đầu lòng ở nhà bà ngoại, đưa hai con trai Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung cùng chồng vào kinh đô Huế lao động để giúp chồng ăn học.

    Sau hàng tháng trời chạy vạy tìm kiếm, vợ chồng ông Sắc mới thuê được một gian nhà nhỏ trong Thành Nội.

    Giữa đất đế đô, bà Loan phải tự lao động để nuôi sống mình, con cái và chồng ăn học bằng nghề dệt vải truyền thống. Cuộc sống gia đình chật vật đến mức ngày tết cũng không may nổi cho con tấm áo mới.

    Năm 1898 khoa Mậu Tuất, ông Sắc dự thi hội lần thứ hai vẫn không đỗ. Cuộc sống gia đình ông ngày càng vất vả, gieo neo. Thông cảm với cảnh ngộ ấy, ông Đinh Viết Chuyên, một quan nhỏ thuộc bộ hình trong triều đình Huế đã đưa ông Sắc về mở lớp dạy học trong nhà ông Nguyễn Sĩ Độ tại làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, Thừa Thiên. Nhờ vậy ông Sắc có thêm điều kiện nuôi sống mình và hai con, đồng thời có thể ôn tập, tu luyện văn chương dự thi Hội trong khoa tới.

    Hai năm dạy học ở làng Dương Nỗ (1898-1900), ông Sắc đã để lại hình ảnh đẹp về thầy đồ xứ Nghệ trong mọi tầng lớp nhân dân Huế, Thừa Thiên.

    Tháng Tám năm Canh Tý (1900), khoa thi Hương mở, ông Nguyễn Sinh Sắc lúc này tuy vẫn là một chân Cử nhân trơn (dân thường), nhưng vì văn hay, chữ tốt, có tín nhiệm nên phó Chủ khảo trường thi Thanh Hóa là Tiến Sĩ Trần Đình Phong đã đưa ông Sắc đi làm Đề lại (thư ký) cho trường thi Thanh Hóa. Cậu Nguyễn Sinh Khiêm được đưa đi cùng để giúp đỡ ông trong sinh hoạt hàng ngày. Còn cậu Nguyễn Sinh Cung thì trở về Huế sống với mẹ.

    Công việc chấm thi ở Thanh Hóa kết thúc, ông Sắc đưa Nguyễn Sinh Khiêm về thăm bà ngoại là Nguyễn Thị Kép ở Hoàng Trù và tu sửa phần mộ cho cha ở Kim Liên, mãi tới tết Tân Sửu (1901) vẫn chưa trở lại Kinh đô Huế.

    Thời gian này, ở Huế, bà Hoàng Thị Loan sinh thêm người con thứ tư. Sinh con trong cảnh túng thiếu, phải nhờ bà con lao động láng giềng giúp đỡ, bà Loan lấy cảnh ngộ ấy đặt tên cho con là Nguyễn Sinh Xin (tên chữ là Nguyễn Sinh Nhuận).

    Sau khi sinh cậu Xin, bà Loan đau ốm liên miên. Căn bệnh hiểm nghèo đã làm tim bà ngừng đập đột ngột vào lúc gần trưa ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901). Bà Hoàng Thị Loan từ giã cõi đời lúc vừa bước sang tuổi ba mươi ba. Khi bà mất ông Nguyễn Sinh Sắc và hai người con là Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Sinh Khiêm đang ở quê hương Hoàng Trù, còn ở Huế, Nguyễn Sinh Cung vừa mười tuổi, Nguyễn Sinh Xin mới được mấy tháng tuổi.

    Thi hài bà Loan được bà con láng giềng trong thành nội đưa qua cống thành long, ra khỏi thành nội, vượt sông Hương lên táng tại chân núi Ba Tầng thuộc dãy núi Ngự Bình gần nơi Nguyễn Huệ lập thiết đàn lên ngôi Hoàng Đế ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), rồi hành quân cấp tốc ra bắc hà đại phá 29 vạn quân Thanh trong tết Kỷ Dậu (1789).
    Trong căn nhà nhỏ, sau cổng Đông Ba thuộc khu Thành Nội Huế, Nguyễn Sinh Cung phải bồng bế, nuôi nấng em Nguyễn Sinh Xin và đón xuân Tân Sửu trong nỗi đau buồn vô hạn vì mất mẹ, vắng cha, vắng anh, vắng chị.

    Giữa tết Tân Sửu, ở Hoàng Trù nhận được tin đại bất hạnh đó, ông Sắc vô cùng đau đớn, vội vàng trở vào Huế. Cảnh tang thương đã đè nặng lên người ông nguyễn Sinh Sắc. Không thể sống trong cảnh gà trống nuôi con ở đất đế đô, ông Sắc cùng cậu Cung thay nhau bồng bế cậu Xin trở về Hoàng Trù.

    Lúc này cuộc sống gia đình ông khó khăn chồng chất. Tuổi đời đã gần 40, vợ mất, một tổn thất lớn làm mất thăng bằng cuộc sống của ông. Cha con không nguồn thu nhập, không kế sinh nhai, tất cả đều dựa vào cụ Nguyễn Thị Kép. Nhưng tuổi già sức yếu, con gái qua đời đột ngột làm cụ càng yếu thêm. Vô cùng thương tiếc người vợ hiền, tận tụy trọn đời vì sự nghiệp của mình, ông Sắc quyết tâm tiếp tục vào kinh đô Huế dự thi hội khoa Tân Sửu để lập công đền đáp công ơn người vợ hiền.

    Được cụ Kép và bà con xóm làng khuyến khích, giúp đỡ tận tình, ông đã gửi các con lại quê nhà rồi kịp vào Kinh đô Huế dự thi. Sau hơn hai mươi năm khổ học, tu luyện văn chương, kỳ thi Hội này ông đậu Phó Bảng.

    Một vị đại thần trong triều đình Huế phục tài học của ông Sắc đã làm câu đối mừng:

    Độc quần đại đình văn sở trần cô phi bình trị quy mô, chân hảo đắc Đông Quảng Xuyên chi học.

    Văn quân sinh nhật ngữ nhập nội tất dĩ ý thành tâm chính quả bất phụ Chu Khảo Đình sở ngôn.

    Dịch nghĩa: đọc văn đại đình khoa của anh điều trình bày không ngoài quy mô bình trị, thật anh có được tài học như Đông Quảng Xuyên.

    Nghe lời anh nói hàng ngày thấy rõ ý thật lòng ngay, thật không phụ lời nói của Chu Khảo Đình.

    Cử nhân Vương Thúc Quý thay mặt nhân dân Kim Liên viết bài trướng văn trong đó có đoạn:

    “Nguyễn hiền đài sau lần hội chí, trở về quê Nghệ An, đem theo vợ con dắt díu vào Nam. Bản thân học Quốc Tử Giám, gia đình trọ trốn kinh Đô. Ngày hai bữa cháo cơm đạm bạc, ăn chẳng bao nhiêu, mà học nghiệp ngày càng tinh tấn. Ôi, gọi là “Phú” mà đất trắng không, xướng là “Kim” mà phận nghèo lại túng. Lại nữa, trời độ người thanh, mộng vàng chợt tỉnh: xưa giao cầm nâng gẫy mà lòng riêng chợt cảm, nay tuổi trung niên đã ôm mối tình chung, Gân sức rã rời mà vẫn cứ ruổi rong. Ý là, gặp cảnh ngộ thì gắng chịu đến tận cùng cảnh ngộ. Nhảy, bay đã rõ giống giao long! Mới hay, duyên cớ đủ thì kiến ong tự đến, văn chương hay lọ phải gượng làm văn. Vậy nên, lửa cháy nổ vang, phiến gỗ đồng thành cây đàn tiêu vĩ. Đỉnh núi thu ý chực vút xung thiên, nhành mai lạnh khai đầu hoa nở sớm. Nhị giáp cây trồng lần trước, tam trường rạng rỡ nghiệp xưa. Gọi mở lòng người về vận thế, văn chương. Thật đáng chúc mừng, đáng để chúc mừng. Mà công lao của Nho học đối với triều đình làng nước cũng là ở đây, ở chỗ này đây.

    Xin bày tỏ mấy lời thơ vụng, vui cùng người áo gấm vinh quy”.

    Kể từ khoa thi Hội TÂn Sửu (1901), những người dậu Phó bảng bắt đầu được hưởng 2 đặc ân của chính bảng là được vua ban cờ, biển và cho hưởng lễ vinh quy bái tổ. Vì thế trong lễ xướng danh, ông Nguyễn Sinh Sắc được vua Thành Thái tặng biển “Ân tứ ninh gia” (Ơn ban cho gia đình tốt) và cấp phương tiện đưa về tận tỉnh lỵ Vinh.

    Tổng đốc An Tĩnh lúc đó là Đào Tấn đã sức cho lý trưởng các làng thuộc xã Chung Cự huy động nhân dân đưa võng, lọng cờ, trống lên tỉnh rước ông Phó bảng tân khoa về Kim Liên vinh quy bái tổ.

    Hồi đó nghi thức này là một vinh dự rất lớn đối với các nho sinh thành đạt. Nhưng ông Nguyễn Sinh Sắc chỉ dự lễ đón tiếp chung do quan Tổng đốc tổ chức rồi không chờ dân làng đến rước, một mình đi bộ về nhà. Đến cầu Hữu Biệt (cầu Mượu), cách làng Hoàng Trù 4km, ông đã gặp dân làng xã Chung Cự mang võng, lọng, cờ, trống trên đường xuống Vinh để rước ông về. Gặp ông giữa đường, nhân dân mừng rỡ liền trương lọng, tung cờ, nổi trống, đăng võng mời ông Phó bảng nằm lên để cho dân làng được rước lễ vinh quy.

    Ông thưa lại: “Tôi đậu chẳng có ích gì cho bà con làng xóm mà bà con phải đón rước?” Dân làng thưa với quan Phó bảng: “Từ xưa đến nay làng Kim Liên ta mới có quan đậu đại khoa làm vẻ vang cho làng nước, xin được rước lễ vinh quy cho thỏa lòng mong ước bấy lâu nay”.

    Ông Sắc một mực từ chối nên cuối cùng dân làng đành phải lặng trống, xếp võng, xếp lọng cùng quan Phó bảng đi bộ trở về.

    Theo tập tục địa phương và nguyện vọng bà con họ Nguyễn Sinh, ông Sắc vinh quy về quê nội Kim Liên.

    Lần đậu Cử nhân, ông đã không tổ chức ăn mừng nay đậu Phó bảng, nhân dân xã Chung Cự trích hai trăm quan tiền quỹ nghĩa thương và ruộng thánh để ông làm chỗ khao. Lúc đầu ông vẫn từ chối, nhưng vì lệ làng buộc ông phải nhận. Song ông lấy lý do là đang có tang vợ, không nên tổ chức ăn mừng. Ông chỉ nhận 10 quan tiền mua trầu, nước mời dân làng, còn lại ông bàn với hội đồng kỳ mục đem chia cho người nghèo đói trong làng làm vốn. Ông còn thân hành xuống tận từng xóm hướng dẫn bà con lấy tiền đó mua nguyên vật liệu về làm nghề thủ công đan thúng mủng, rổ rá… bán lấy tiền sinh sống. Vốn đó có nơi còn giữ mãi đến năm 1945.

    Sau khi vinh quy về làng Kim liên, ông Nguyễn Sinh Sắc cùng các con sống một cuộc sống thanh bạch, đầm ấm trong ngôi nhà tranh năm gian do xã Chung Cự và bà con hai họ Nguyễn Sinh, Hoàng Xuân làm cho.
    Triều đình Huế mời ông Sắc đi làm quan, nhưng ông lấy lý do “bị bệnh ở lại quê quán uống thuốc” để từ chối. Ông viết lên xà nhà mấy chữ: “Vật dĩ quan gia, vi ngô phong dạng” (đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình) để răn dạy con.

    Ông Sắc rất quan tâm đến việc học hành của con cái. Ông cho con trai đến học với Cử nhân Vương Thúc Quý (là con trai Tú tài Vương Thúc mậu, lãnh tụ Cần Vương chống Pháp ở núi Chung), bạn thân của ông và là một trong “tứ hồ” của Nam Đà.

    Sau khi đậu Phó bảng, ông Nguyễn Sinh Sắc còn có điều kiện đàm dạo thời cuộc với Phan Bội Châu và các sĩ phu yêu nước trong vùng. Năm 1903 nhân dân Võ Liệt, huyện Thanh Chương, một vùng có truyền thống hiếu học và yêu nước, nghe tin ông Nguyễn Sinh Sắc là người có học vấn uyên bác, văn hay chữ tốt, có đạo đức trong sáng, liền cử ông Phan Sĩ Mậu (còn gọi là ông Đồ Cẩm) xuống tận Kim Liên mời ông lên dạy học tại nhà ông Nguyễn Thế Vấn.

    Gần một năm dạy học ở đó, ông đã để lại hình ảnh đẹp của người thầy giáo, có ảnh hưởng tốt trong học trò, có người kể rằng: những đêm học trò đến hỏi bài khuya quá không thể về nhà, được ông cho ngủ cùng giường. Ông thường khuyên học trò đã đi học thì phải chăm học để đi thi. Nếu đi thi có đỗ thì cũng không nên làm quan, vì làm quan là áp bức, bóc lột, đè nén dân.
    Ông không coi việc học trò thi cử đậu đạt cao, làm quan to là dấu hiệu vinh hiển của người thầy giáo. Đây là điều khác biệt giữa thầy đồ nho Nguyễn Sinh Sắc với các thầy đồ nho khác ở trong vùng. Hai mươi sáu năm sau (1929), nghe tin ông đã tạ thế ở Cao Lãnh, Đồng Tháp, học sinh ở Thanh Chương làm đôi câu đối để viếng thầy trong đó có một vế như sau:

    “nhớ thầy xưa thiếu niên cô khổ, học hành tài giỏi đậu Hương đậu Hội, nhà chẳng có, quan chẳng làm, nuôi con trưởng thành một gái hai trai”.

    Khoảng năm 1904, sau khi dạy học ở Thanh Chương một năm, ông chuyển sang dạy học ở nhà Nguyễn Bá Uy thuộc làng Du Đồng, huyện Đức Thọ. Sau đó ông đi khắp các vùng trong tỉnh gặp các nhân sĩ yêu nước. Đến làng Đông Thái, quê hương của cụ Phan Đình Phùng; đến làng Trung lễ, quê hương của Lê Ninh; có vài lần ông đưa cậu Nguyễn Sinh Cung đến làng Trung Cần, quê hương của Thám hoa Nguyễn Đức Giao; lên núi Thiên Nhẫn, thăm di tích lịch sử thành Lục Niên, đại bản doanh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, được xây dựng từ năm 1424 chống quân xâm lược nhà Minh; một trí thức nổi tiếng thời Tây Sơn. Có khi ông ra đến tận huyện Diễn Châu thăm ông Võ Tất Đắc, một tri huyện ở Thanh Hĩa, cáo quan về ở làng Vạn Phần (nay xã Diễn Vạn), thăm ông Võ Khang Tế ở làng Hậu Luật (nay là xã Diễn Bình), trước là Tương Tán Quân vụ trong cuộc khởi nghĩa chống Pháp của cụ Nghè Nguyễn Xuân On về ở tại đây. Ong lên xã Tràng Sơn, huyện Yên Thành, thăm con cháu Lê Doãn Nhã, một lãnh tụ chống Pháp, ra làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu. Có lần ông ra đến tận huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, đàm đạo thời cuộc với các sĩ phu ở ngoài Bắc, trong đó có người con trai lãnh tụ chống Pháp Nguyễn Quang Bích, là cậu ấm Nguyễn Quang Đoan.

    Những nơi ông đến là những nơi có phong trào đấu tranh chống Pháp sôi nổi và anh dũng. Những người ông kết giao đều là những người có lòng yêu nước, có chí cứu nước. Trong lúc đàm đạo thời cuộc với các nhà nho yêu nước, ông Nguyễn Sinh Sắc thường phê phán lối học của các cụ đương thời là “chi điệp, chi văn” (lối văn trên cành, trên lá), là không thiết thực. Tại sao cuộc chiến đấu của phong trào khởi nghĩa Phan Đình Phùng, khởi nghĩa của Nguyễn Xuân On rất sôi động và oanh liệt, nhưng kết cục không thắng lợi được là đề tài các cụ thường đàm luận. Các cụ thường bàn nhiều đến việc làm thế nào để giải phóng đất nước, làm sao cho dân khỏi khổ…

    Những cuộc đàm luận này đã có ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng yêu nước của Nguyễn Sinh Cung, góp phần giúp cậu có nhiều suy nghĩ về con đường sẽ lựa chọn sau này.

    Trong gia đình, Nguyễn Sinh Cung là người được ông yêu thương, và đặt nhiều hy vọng nhất, đi đâu cũng thường được cho đi cùng, nhờ vậy mọi việc làm, mọi lời nói, mọi cử chỉ hàng ngày của ông Sắc đều đã tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu sắc tới cậu.

    Thực tế sôi động của nhân dân Nghệ Tĩnh nói riêng và cả nước nói chung, cùng với nỗi niềm tâm sự của ông Sắc và các sĩ phu yêu nước thời bấy giờ đã làm cho cậu đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Khi nghe tin bọn thực dân Pháp tuyên truyền ba mục tiêu lớn của cuộc đại cách mạng tư sản Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”, cậu đã suy nghĩ nhiều và muốn tìm hiểu bản chất của nó. Cậu thấy thái độ và chính sách của thực dân Pháp diễn ra ở các vùng mình đã đi qua đều trái hẳn với điều chúng nói. Thực tế đó càng thôi thúc cậu muốn tiếp xúc với nền văn minh Pháp để khám phá ra sự thật.

    Về sau, Người đã nhắc lại những ý nghĩ của mình trong giai đoạn này: “vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái…” thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những từ ấy”.

    Giai đoạn này, ông Nguyễn Sinh Sắc đang hết sức quan tâm đến vận mệnh của đất nước, nhưng làm thế nào để cứu nước thì ông vẫn chưa xác định được. Ong không tin hoạt động của những sĩ phu yêu nước lúc đó là có thể thành công. Tâm trạng này đã thể hiện trong câu đối mừng người bạn là Nguyễn Tài Tốn đậu cử nhân khoa bính ngọ (1906).

    Ngô bối do hòe vi cức viện tiến thân, hiện tại chỉ khán đàm giáp ất.

    Tiên công dĩ đại bút hùng văn minh thế tái sinh tằng phủ chí canh tân.

    Dịch nghĩa:

    Bọn ta từ chốn trường thi mà làm nên danh vọng, thế nhưng bây giờ đây chỉ ngồi bàn thứ tự cao thấp mà thôi.

    Các bậc đời trước lấy bút mạnh văn hùng thức tỉnh đời, ví bằng có sống lại thì cũng khó làm nổi việc canh tân.

    Vì thế ông không hành động theo một tổ chức nào, kể cả phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, bạn chí thân của ông. Đây là ngã rẽ lối giữa nguyễn sinh sắc và Phan Bội Châu. Hai ông cùng chung tư tưởng yêu nước và mục đích cứu nước, nhưng làm thế nào để cứu nước thì mỗi người suy nghĩ và hành động theo một hướng.

    Nhờ ảnh hưởng tư tưởng của cha, kết hợp với sự nhạy cảm về chính trị của bản thân, Nguyễn Sinh Cung, đã biết từ chối con đường Đông Du ngay từ khi cụ Phan Bội Châu muốn đưa cậu sang Nhật Bản hồi tháng 7 năm 1906.

    Vừa đoạn tang mẹ vợ, tháng 5 năm 1906 triều đình Huế lại đưa giấy về mời ông đi làm quan. Hết lý do từ chối, ông phải giã từ quê hương, lên đường nhận chức. Thời gian này thực dân Pháp đã đi sâu khai thác thuộc địa. Để thuận tiện chuyên chở những của cải thu mua, vơ vét, tước đoạt được ở Lào, ở Nghệ Tĩnh, chúng đã khuẩn trương làm đuờng Vinh – cửa rào, nối liền đường sắt Hà Nội – Vinh. Việc bị cưỡng bức phải đi phu làm đường Vinh – cửa rào, trấn ninh là một tai họa khủng khiếp đối với nhân dân Nghệ Tĩnh.

    Với nỗi niềm thương dân vô hạn, trước khi ra đi ông Nguyễn Sinh Sắc chỉ để lại một ít ruộng cho con gái là Nguyễn Thị Thanh ở nhà cày bừa mà sinh sống, còn nữa ông đem bán ấy tiền giúp cho những người dân trong làng có người ruột thịt đang phải đi phu. Hành lý của ông Nguyễn Sinh Sắc khi đi làm quan cũng nhẹ nhàng đơn giản như khi đi dạy học.
    Khi chuẩn bị lên đường, có người bà con đến ngỏ ý xin đi theo để vừa chăm sóc ông, vừa để nương nhờ. Ong đã thàn thật chỉ bảo: “anh ở nhà mà cày bừa làm ăn, tôi đi chưa chắc đã làm quan, nếu có làm quan chưa chắc đã làm quan lâu”.

    Khi ông sắc cùng hai con đi Huế rồi, nhân dân trong làng Kim Liên, làng Hoàng Trù và cả xã chung chự nói với nhau: “người ta đi làm quan để vinh thân, còn ông phó bảng đi làm quan là để che thân”.

    Ơ kinh đô Huế hồi đó có lưu truyền một bài ca thể hiện sự kén chon trong đám quan lại khi được bổ dụng:

    “Nhất là bộ lại bộ binh

    Nhì thì bộ hộ, bộ hình cũng xong

    Thứ ba thì đến bộ công

    Nhược bằng bộ lễ lạy ông tôi về”.

    Triều đình Huế bố trí cho ông Sắc làm thừa biện ở bộ lễ, là một chức quan nhỏ.

    Bộ lễ trong triều đình Huế những năm đầu thế kỷ 20 có năm chức năng: lễ nghi, học hành, thiên văn, bói toán và khen thưởng. Ong được Lê Trinh thựơng thư bộ lễ lúc đó bố trí trong nhóm quan lại phụ trách việc học hành. Mỗi tháng hai kỳ ông phải đến giảng đường Di Luân trường Quốc Tử Giám để theo dõi các cuộc bình văn, bình thơ.

    Bằng thực tế cuộc sống trong đám quan trường đương nhiệm, bằng chính thực tế của bản thân mình đang phải chịu đựng ông chua xót nói với các giám sinh rằng: “quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ” (quan trường là nô lệ trong đám người nô lệ, lại càng nô lệ hơn).

    Đó là thực chất cuộc sống quan trường mà những người như ông Sắc phải chịu đựng. Ong sắc đã thẳng thắng nói ra. Đây là kết quả của một quá trình nhận thức suy ngẫm, tổng kết. Tư tưởng tiến bộ của ông đã phát triển từ thấp lên cao, tất yếu sẽ đến chỗ đối kháng với chế độ phong kiến và thực dân đương thời. Chán ghét sự giả dối, đồi trụy của đám quan trường trong triều đình Huế và chán ghét nhân tình thế thái lúc ấy, từ kinh đô ông đã gửi thư về quê nhà cho cháu Nguyễn Sinh Lý để khuyên răn con cháu giữ lấy nhân cách:

    “…uy thế bất túc thị

    xảo hiểm đồ tựa hại!

    Giới chi, giới chi!”

    Dịch:

    Uy thế mạnh không đủ để dựa

    Xảo hiểm là tự hại mình!

    Răn đấy! Răn đấy!)

    Tư tưởng tiến bộ, nhân cách cao thượng của cha đã để lại những ấn tượng tốt đẹp đậm nét trong con người cậu thiếu niên Nguyễn Sinh Cung.

    Y nguyện muốn tiếp xúc với nền văn minh Pháp để tìm hiểu bản chất của nó ngày càng thôi thúc cậu. Tháng 5 năm 1906, cậu được cha đưa vào kinh đô Huế.

    Trong khi đa số các nhà nho không muốn cho con cái vào học trường Pháp – Việt, vì vào đây phải học chữ Phap, bỏ mất chữ nho là chữ ”thánh hiền”. Trong khi các sĩ phu yêu nước có người cực đoan cho rằng tiếng Pháp là ngôn ngữ của kẻ thù nên không muốn cho con cái theo học chữ Tây, chữ Quốc Ngữ. Ong Nguyễn Sinh Sắc lại cho con vào học trường tiểu học Pháp – Việt Đông Ba và trường quốc học Huế.

    Đây là điều kiện tốt nhất để Nguyễn Sinh Cung không những chứng kiến thực trạng xã hội ở trung tâm đầu não của chế độ phong kiến triều đình nhà Nguyễn mà trực tiếp tiếp xúc với nền giáo dục Pháp nói riêng và nền văn minh Pháp nói chung.

    Điều quan trọng là cậu đã thấy được là kẻ miệng nói tự do, bình đẳng, bác ái lại chính là kẻ đè nén, bóc lột, ức hiếp dân ta đủ điều.

    Thực tế này sớm nhân lên trong lòng Nguyễn Sinh Cung chí căm thù giặc sâu sắc. Thời kỳ học tập ở kinh đô Huế, Nguyễn Sinh Cung ở chung với ông Nguyễn Sinh Sắc, cho nên mỗi lời nói, mỗi việc làm hàng ngày của người cha thân yêu có tác động trực tiếp tới suy nghĩ và hành động của cậu.

    Là người rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái, ông Sắc vẫn thừa nhận quan điểm “Phụ huynh bất năng cấm ước tử đệ” (cha mẹ không thể cấm đoán những ước mong của con cái). Ong đã từng bị thực dân Pháp khiển trách vì “hạnh kiểm của hai con trai ở trường quốc học đã nói trước mặt thầy giáo cũ những lời bài pháp trong dịp dân chúng biểu tình chống thuế 1908).

    Tuy thế, ông vẫn dạy bảo con cái theo suy nghĩ và cách nhìn của mình.

    Tư tưởng tiến bộ và nhân cách cao thượng hàng ngày của cha cùng những biến đổi lớn lao của xã hội Việt Nam trong những đầu thế kỷ 20 đã làm cho tư tưởng yêu nước và lòng căm thù giặc của Nguyễn Sinh Cung phát triển cao độ, thúc giục cậu đi đến những hoạt động cứu nước sôi nổi. Cậu đã tham gia phong trào chống thuế ở Huế. Chí hướng muốn đi ra nước ngoài để tìm đường cứu nước bắt đầu hình thành.

    Cậu rời trường quốc học Huế, đi vào các tỉnh Nam để tìm cách đi ra nước ngoài.

    Một ngày đầu tháng tư năm kỷ dậu (1909), ông Nguyễn Sinh Sắc tạm biệt kinh đô Huế lên đường vào tỉnh Bình Định làm giám khảo thi hương khoa kỷ dậu.

    Rate this post